Bài Xuân Quý Tỵ 2013 - Khoa học gia Trương Đình Hiển một đời nặng nợ với non sông
Tôi
chỉ muốn thực hiện “Quyền được biết ơn”
Khoa học gia Trương Đình
Hiển một đời nặng nợ với non sông
Khi nghe tôi chia sẻ ý
định, người bạn vong niên đáng kính ấy thoáng chút suy tư, rồi khiêm hạ gật
đầu. Ở cái tuổi thất thập cổ lai hy này, ông cũng muốn được nói vài lời với hậu
thế ngõ hầu làm vơi bớt suy tư, nỗi lòng mà với ông, dù đã và hoàn toàn có
quyền được an hưởng điền viên với các cháu nội ngoại, trách nhiệm đối với non
sông vẫn như là một thuộc tính bất biến của ông.
Trần Xuân Thái
Khoa học gia TS. Trương Đình Hiển, chào đời vào mùa hè năm Tân Tỵ
(24/8/1941) trong một gia đình có truyền thống hiếu học ở Hội An (Quảng Nam).
Ông được thừa hưởng dòng máu của tổ tiên tộc Trương Đôn Hậu (Hội An), từ người
cha Trương Đình Vinh, một học sinh giỏi của Trường Quốc Học, và người mẹ là
người đẹp của Trường nữ sinh Đồng Khánh. Trương Đình Hiển là kết trái của tình
yêu mà đôi “trai tài gái sắc” ấy đã mang đến cho đời, như một món quà qúy giá
mà tiền nhân đã để lại cho hậu thế.
Làm khoa học vì thực tiễn
đất nước
Từ thuở nhỏ, cậu Hiển đã tỏ ra là một học sinh thông minh, sắc sảo,
có bản lĩnh và quyết đoán tuy vẫn pha chút mơ mộng vì nhiều hoài bão.
Kháng chiến chống Pháp, Hiển theo cha mẹ vào vùng giải phóng Liên
khu V. Sau năm 1954, cậu học sinh trường Lương Văn Chánh (Phú Yên) lặng lẽ theo
cha mẹ tập kết ra Bắc và học ở trường học sinh miền Nam, sau đó về Hà Nội học
tiếp trung học. Là một học sinh giỏi Lý với các phân tích sắc sảo làm nức lòng
giới giáo chức lúc bấy giờ, Trương Đình Hiển đã không khó để lọt vào danh sách
trúng tuyển Đại học Tổng hợp Hà Nội học chuyên ngành Vật lý, một trong những ĐH
có tiếng của đất học Thăng Long lúc đó. Tại đây, cậu sinh viên tên Hiển đã quen
và yêu người em gái có vẻ đẹp thùy mị, nết na và kín đáo đất Hà thành của anh
bạn thân học cùng trường là Hoàng Phương Thảo, hậu duệ của Tổng đốc trung liệt
Hà Ninh Hoàng Diệu, người đã tuẫn tiết khi bảo vệ thành Hà Nội trước quân Pháp
(1882). Ngày họ thành thân với nhau, cũng là ngày Trương Đình Hiển bước chân
vào Viện Nghiên cứu Biển Việt Nam, để rồi 2 năm sau, ông ra nước ngoài làm việc
với tư cách chuyên gia tại Viện Hải dương học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Trung
Quốc.
Sau khi trở về Việt Nam năm 1965, đến năm 1967 ông sang Liên Xô (cũ)
làm nghiên cứu sinh và bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sĩ với đề tài
“Cấu trúc cỡ trung bình của dòng chảy trong đại đương”, tại Viện Hàn lâm khoa
học Liên Xô. Trước khi thực hiện thành công đề tài này, NCS Trương Đình Hiển
từng thực hiện đề tài “Giải bài toán phi tuyến về dòng chảy biển”. Vị GS hướng
dẫn ông lúc bấy giờ là V.B. Stockman đã trao đổi: “Nếu đi theo hướng này, anh
có thể trở thành một người nổi tiếng về mặt lý thuyết. Nhưng Việt Nam
các bạn đang rất cần những nhà khoa học giỏi giải quyết các vấn đề thực tiễn”.
Thật may mắn cho Trương Đình Hiển ngay từ những ngày ngày đầu học ở Liên Xô,
ông đã gặp một người thầy vĩ đại tầm cỡ thế giới về động lực học biển. Cái vĩ
đại ấy không chỉ ở phẩm chất khoa học uyên thâm, tấm lòng cao cả đối với người
học trò nước ngoài của mình, mà sự vĩ đại và cao cả ấy còn tăng gấp bội khi
hướng người học trò của mình biết lấy lợi ích dân tộc, lợi ích tối cao của đất
nước làm lý tưởng, mục tiêu phấn đấu trong nghiên cứu khoa học của mình. Bởi,
người thầy ấy tin, rất tin rằng, học trò của mình có thể sẽ trở thành nhà vật
lý lý thuyết nổi tiếng; nhưng ông muốn người học trò đó cần quay về thực tiễn
đất nước để phục vụ đất nước. Và, bước ngoặt cuộc đời nghiên cứu khoa học của Khoa
học gia về Động lực học biển và Công trình thềm lục địa, Nghiên cứu viên cao
cấp của Viện Vật lý thuộc Viện KH&CN Việt Nam, TS. Trương Đình Hiển đã bắt
đầu từ thời khắc quan trọng này.
Miền Trung và chiếc “đòn
gánh thép”!
Tính đến cái Tết Quý Tỵ (2013) này, Khoa học gia Trương Đình Hiển
tròn 72 năm chào đời, 50 năm tròn làm công tác nghiên cứu khoa học, theo hướng
nghiên cứu “Dẫn dắt thực tiễn đất nước”, với 160 công trình nghiên cứu và phản
biện trong và ngoài nước. Trong đó tập trung vào các nội dung: Lý thuyết mô
hình hóa toán học; các quá trình hải dương; các nghiên cứu về thủy văn biển;
công trình biển và công trình thềm lục địa; các quá trình ven bờ.
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài của ông đã được sử dụng trong
các sách quan trọng về hải dương học của Liên Xô, như quyển Vật lý hải dương
của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (NXB Khoa học Mátxcơva 1978); quyển Các xoáy
thời tiết trong đại dương. Đặc biệt, quyển Những thành tựu 50 năm Hải dương học
Xô Viết, nhà khoa học Việt Nam duy nhất có công trình được đưa vào quyển sách
chính là TS. Trương Đình Hiển. Tại Việt Nam,
hầu hết các công trình nghiên cứu được ứng dụng vào thực tiễn Việt Nam
trong nghiên cứu và trong phát triển kinh tế xã hội đất nước. Đặc biệt các kết
quả nghiên cứu đã và đang được ứng dụng rộng rãi để phát triển kinh tế xã hội ở
dải đất miền Trung quê hương “chiếc đòn gánh tre nặng trĩu” (cách nói của ông –
NV) của ông, và vùng ven biển, kinh tế biển. Đó là các công trình (cùng với các
cộng sự): Cảng biển nước sâu (CBNS) và KCN Dung Quất – Ông là người đã phát
hiện ra Dung Quất và tự dùng tiền túi để nghiên cứu nhằm chứng mình về tính khả
thi và tính hiệu quả của cảng biển Dung Quất với các nhà lãnh đạo Việt Nam và
các chuyên gia trong và ngoài nước; CBNS và KCN Chân Mây; CBNS và KCN Nhơn Hội
tạo điều kiện cho Nhà nước Việt Nam đi đến quyết định thành lập Khu kinh tế
biển miền Trung – tiền đề của Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung. Sự liên minh
giữa các tổ hợp các KKT biển này đã hình thành nên một “trục kinh tế biển hùng
mạnh” với 15 KKT biển miền Trung, trở thành “hòn đá tảng” để phát triển kinh tế
biển trong thế kỷ Việt Nam vươn ra biển lớn.
Trải qua nhiều thập kỷ nghiên cứu, ứng dụng thực tiễn với chiều dài
hàng mấy trăm năm trước đó là vùng đất của nắng và gió, của lũ lụt và giông bão,
đói nghèo triển miên hàng nhiều thế hệ và gần như “bế tắc” con đường phát
triển; thì ngày nay, miền Trung đã tìm thấy “ánh sáng cuối đường hầm”, con
đường phát triển của miền Trung đã lộ diện. Đó là con đường phát triển đại công
nghiệp đi kèm với du lịch, dịch vụ thông qua trục kinh tế biển đã được định
hình. Hiện tại, các ngành công nghiệp nặng đang tập trung tại các KCN phức hợp
miền Trung bao gồm: năng lượng, dầu khí, hóa dầu, VLXD, luyện cán thép, điện,
công nghiệp chế tạo máy công cụ… Đặc biệt Quảng Ngãi, từ chỗ ngân sách của tỉnh
chỉ có 160 tỷ đồng, giờ đây đã bước vào CLB 20.000 tỷ đồng và sắp tới sẽ còn
vươn xa hơn nhiều.
Nhìn lại những bước thăng trầm của dải đất miền Trung, có thể thấy:
Chiếc “đòn gánh tre” trĩu nặng ngày nào, đã trở thành “đòn gánh thép” trong
tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Hơn thế, con đường CNH -
HĐH cùng sự hội nhập với duyên hải miền Trung và tiểu vùng sông Mékong qua cửa
ngõ Hành lang kinh tế Đông Tâ (EWEC), sẽ đưa đến một Tây Nguyên giàu có về kinh
tế, vững mạnh về chính trị và ANQP, và góp phần to lớn với duyên hải miền Trung
tiến kịp 2 đầu của đất nước.
“Làm khoa học là phải biết
chấp nhận thực tiễn đất nước!”
Nhà khoa học lão thành đã chia sẻ như vậy, khi tôi đặt vấn đề làm
thế nào để thu hút chất xám Việt kiều đóng góp xây dựng và phát triển đất nước.
Bởi theo ông, nếu khoa học chịu đi theo sự dẫn dắt và tiếp cận với thực tiễn
đất nước, chắc chắn sẽ đạt được những thành quả, hiệu quả tích cực và to lớn.
Tôi cố thưởng thức hết mùi vị những giọt cà phê cuối cùng khi được
ngồi đàm đạo cùng ông cùng ông, rồi nhẩm tính: 160 công trình nghiên cứu và
phản biện khoa học cho 50 làm nghiên cứu, trung bình mỗi năm ông cho “ra lò”
3,2 công trình. Một con số cực kỳ ấn tượng mà không nhiều người có thể làm
được.
Ông làm hết lòng mà không màng chút danh lợi hay muốn được người khác
tri ân. Còn nhớ, cách nay hơn 2 năm vào giữa tháng 11/2010, ông nhận được tin
báo có một Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Sau khi kiểm tra các thông tin
liên quan, nhận thấy còn một số vấn đề chưa ổn và thiếu minh bạch trong thủ tục,
ông đã gửi thư từ chối thẳng với lý do: Thành tích được nêu trong bằng khen
hoàn toàn không đúng sự thật. Bởi ông thừa biết trước đó, trong danh sách xét
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH&CN năm 2010 cho
công trình “Nghiên cứu, khảo sát lập dự án chọn địa điểm CBNS và KCN Dung Quất,
tỉnh Quảng Ngãi”, chỉ toàn những cái tên hết sức xa lạ, trong khi tác giả chính
của nó cùng các cộng sự lại hoàn toàn không được nhắc đến, dù chỉ một từ! Và,
có thể đây là một động tác “vớt vát” lại cho cái quy trình xét thưởng kỳ quặc
ấy chăng?
Thoáng chút suy tư, ông chợt nhỏ giọng: “Mình đến cuối đời vẫn chưa
được yên, vẫn còn thấy nhiều việc phải làm; bởi vì sự phát triển của đất nước
là vô tận song sức lực của con người thì có giới hạn. Tuổi già đã “nhẫn tâm” giành
lấy mọi nỗ lực còn lại của con người”. Giọng ông nghẹn lại, chùn xuống… Rồi lão
khoa học gia thổn thức: Con người từ khi sinh ra, trưởng thành và cho đến ngày
ra đi, ai cũng trải qua công sinh thành và nuôi dưỡng của mẹ cha, sự giúp đỡ to
lớn của mọi người. Bất kỳ sự thành công nào cũng không thoát khỏi những công ơn
to lớn ấy. Và cuộc đời tôi đã làm tất cả chỉ muốn để thực hiện một quyền không
thể thiếu được, đó là “Quyền được biết ơn”!
(Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam, số đặc biệt Xuân Quý Tỵ 2013)
Nhận xét
Đăng nhận xét