Bài Tết Giáp Thìn 2024 - Triển vọng phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long
Những năm gần đây, nhiều dự án giao thông quan trọng ở đồng bằng sông Cửu
Long đồng loạt được khởi công xây dựng; trong đó có một số dự án đã hoàn thành
và đưa vào khai thác, tạo ra “năng lượng mới” và thêm sức bật cho vùng đất trù
phú về nông nghiệp nhất cả nước này.
Xuân Nghi
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng kinh tế quan trọng,
vùng tập trung sản xuất lúa gạo và có điều kiện thuận lợi phát triển nông
nghiệp, đóng góp lượng lớn hàng nông sản xuất khẩu của quốc gia.
Vùng chiến lược
sản xuất nông thủy hải sản
Vùng ĐBSCL có diện tích tự nhiên
39.734 km2 chiếm 12,2% diện tích tự nhiên cả nước; dân số khoảng
18 triệu người, chiếm 19% dân số cả nước. Quy mô kinh tế ngày càng mở rộng, năm
2020 đạt khoảng 970 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,95% tổng sản phẩm trong nước (GDP)
cả nước; tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu người đạt 56,02 triệu
đồng/người/năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 62,8%.
ĐBSCL là vùng sản xuất và xuất khẩu
lương thực, thực phẩm, thủy hải sản và trái cây lớn nhất cả nước, đóng góp 31,37%
GDP toàn ngành nông nghiệp với khoảng 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo
xuất khẩu, chừng 65% sản lượng thủy sản nuôi trồng, 60% lượng cá xuất khẩu và xấp
xỉ 70% trái cây các loại,…
Với những đặc điểm và lợi thế nêu
trên, vùng ĐBSCL còn được gọi là “vựa nông sản” của cả nước. Đây là khu vực có
hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt với nhiều vườn cây trĩu trái, rừng nước
lợ, rừng ngập mặn rộng lớn với các khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc gia, khu bảo
tồn thiên nhiên được công nhận,...
Số liệu của Cục Trồng trọt, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, năm 2023 sản xuất lúa vùng ĐBSCL
ước đạt 3,816 triệu ha, tăng 13.180 ha; năng suất ước đạt 62,81 tấn/ha, sản lượng
ước đạt 23,970 triệu tấn, tăng 416.000 tấn so cùng kỳ năm 2022. Tỷ lệ sử dụng
giống lúa thơm và lúa chất lượng cao tăng, đáp ứng theo yêu cầu thị trường xuất
khẩu gạo. Về cây ăn trái, ước sản lượng các loại cây ăn trái chính (như xoài,
chuối, thanh long, khóm, cam, quýt, bưởi, nhãn, chôm chôm, sầu riêng, mít) toàn
vùng ĐBSCL năm 2023 đạt 5,335 triệu tấn, tăng hơn 1 triệu tấn so với năm 2022.
Về tổng thể, theo Báo cáo kinh tế
thường niên ĐBSCL năm 2022: Chuyển đổi mô hình phát triển và quy hoạch tích hợp
(NXB Đại học Cần Thơ, 2022), ĐBSCL luôn đứng đầu cả nước về gạo, tôm nước lợ,
cá tra và trái cây với 24,51 triệu tấn thóc (chiếm 55,4% tổng sản lượng cả nước),
0,78 triệu tấn tôm (chiếm 83,51% tổng sản lượng), 1,472 triệu tấn cá tra (chiếm
98% tổng sản lượng) và 4,3 triệu tấn trái cây (chiếm 60% tổng sản lượng).
Tài nguyên đất ở ĐBSCL gồm: Đất
cát 43.320 ha, chiếm 1,09%; đất mặn 744.550 ha chiếm 18,75%; đất phèn 1.600.000
ha, chiếm 40,29%; đất phù sa 1.184.860 ha, chiếm 29,84%; đất than bùn 24.030 ha,
chiếm 0,6% và đất sông rạch khoảng 374.484 ha chiếm 9,43%. Đặc biệt, đất phèn ở
ĐBSCL khá lớn tập trung ở vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, vùng bán đảo
Cà Mau,… với diện tích khoảng 1,5 triệu ha.
“Vùng trũng” đường cao tốc
ĐBSCL còn là vùng có vị trí chiến
lược về quốc phòng - an ninh, với đường biên giới đất liền phía Tây Nam; đồng
thời có hơn 700 km bờ biển (bằng 23% cả nước), 367 nghìn km2 vùng
biển và vùng đặc quyền kinh tế, giàu tiềm năng về tài nguyên và năng lượng tái
tạo. Nơi đây hội đủ những yếu tố cần thiết để trở thành một trong những vùng
kinh tế trọng điểm của khu vực và cả nước.
Tuy nhiên, ĐBSCL lâu nay cũng được
xem là “vùng trũng” về nhiều mặt, như: Tăng trưởng kinh tế, đời sống sinh kế,
giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực,… Hiện trạng phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng, lợi thế sẵn có. Một trong các nguyên nhân sâu xa là hệ thống kết cấu hạ tầng
giao thông còn hạn chế, đặc biệt là hệ thống đường bộ cao tốc, chưa đáp ứng được
nhu cầu vận tải với khối lượng lớn, tốc độ nhanh, an toàn.
TS. Dương Như Hùng, Giảng viên Trường Đại học Bách khoa TP.HCM, dẫn số liệu nghiên cứu trên thế giới, đã
chỉ ra rằng: Chiều dài
các loại đường của một quốc gia phụ thuộc vào diện tích, mật độ dân số, GDP đầu
người... Khi GDP/đầu người tăng 2% thì thông thường đường cao tốc tăng
thêm 1%. Trong khi đó, GDP/đầu người của khu vực ĐBSCL cao nhưng tỷ lệ đường
cao tốc lại rất thấp. Theo tính toán này, TS. Dương Như Hùng cho rằng, khu vực ĐBSCL
cần khoảng 1.263 km đường cao tốc và vùng Đông Nam Bộ vào khoảng 1.900 km.
Quyết định số 287/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến
năm 2050, nêu rõ: Hệ thống đường cao tốc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 có
tổng chiều dài khoảng 1.166 km, bao gồm ba trục dọc kết nối vùng ĐBSCL - vùng
Đông Nam Bộ và ba trục ngang gắn kết hệ thống cảng biển với các cửa khẩu quốc tế.
Riêng về quy hoạch đường bộ cao tốc cho vùng ĐBSCL, qua rà soát Bộ Giao thông vận
tải cho biết, đến năm 2030 sẽ có khoảng 760 km và sau năm 2030 tiếp tục đầu tư
thêm khoảng 420 km.
Trong tổng số 1.239 km đường cao
tốc hiện có của cả nước, vùng ĐBSCL đến nay mới hoàn thành khoảng 175 km đường cao
tốc. Đó là các đoạn TP.HCM - Trung Lương (49 km), Trung Lương – Mỹ Thuận (51,5
km), Mỹ Thuận – Cần Thơ, vừa hoàn thành cuối 12/2023 (23 km) và tuyến Lộ Tẻ - Rạch
Sỏi (51 km), chiếm khoảng 14% tổng chiều dài đường cao tốc hiện có cả nước.
Những công trình giao thông bứt phá làm thay đổi diện mạo
Năm 2023 là năm của các dự án cao dự án cao tốc mới đồng loạt khởi công,
gồm các tuyến Cần Thơ – Cà Mau dài 111 km với hai dự án thành phần Cần Thơ – Hậu
Giang và Hậu Giang – Cà Mau, tuyến cao tốc trục ngang Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc
Trăng dài 188 km.
Các tuyến trục ngang Mỹ An – Cao
Lãnh và Cao Lãnh – An Hữu đang hoàn thiện các thủ tục để kịp khởi công trong
năm 2024. Hai tuyến TP.HCM – Trung Lương và Trung Lương – Mỹ Thuận hiện đang
triển khai phương án đầu tư mở rộng (giai đoạn 2). Tuyến cao tốc Hà Tiên – Rạch
Giá – Bạc Liêu đàng làm báo cáo nghiên cứu tiền khả thi.
Các dự án cầu đường bộ và cầu đường
bộ cao tốc, đến nay, dự án cầu Rạch Miễu 2 nối Tiền Giang – Bến Tre đi các tỉnh
ĐBSCL đang thi công, dự kiến hoàn thành vào năm 2026. Dự án cầu Mỹ Thuận 2 (cầu
cao tốc) đã hoàn thành cùng với cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ dịp cuối năm 2023 vừa
qua. Dự án cầu Đại Ngãi qua sông Hậu nối hai tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng trên
tuyến quốc lộ 60 đi các tỉnh ĐBSCL có tổng mức đầu tư trên 8.000 tỷ đồng đã khởi
công vào ngày 15/10/2023 và dự kiến hoàn thành năm 2026. Dự án cầu Đình Khao
qua sông Cổ Chiên trên tuyến quốc lộ 57 đang chờ quyết định phê duyệt của Thủ
tướng Chính phủ.
Ngoài các dự án đã hoàn thành và
đưa vào khai thác, hiện trong khu vực có 8 dự án đang được triển khai, có tổng
mức đầu tư khoảng 94.400 tỷ đồng, dự kiến cơ bản hoàn thành trong giai đoạn
2021 - 2025, đưa vào khai thác trong năm 2026 với tổng chiều dài 463 km.
Các dự án cầu đường bộ trọng điểm
khác như cầu Vàm Cống đã đưa vào khai thác sử dụng từ cuối tháng 5/2019; cầu
Cao Lãnh thông xe cuối tháng 5/2028; dự án cầu Cổ Chiên 2 đang triển khai
phương án, dự kiến xây dựng và hoàn thành trong giai đoạn 2025 – 2030; cùng một
số dự án khác như cầu Mỹ Lợi (đã khai thác), dự án cầu nối Gò Công (Tiền Giang)
– Bình Đại (Bến Tre).
Như vậy, đến cuối năm 2026, khu vực
ĐBSCL sẽ có khoảng 554 km đường cao tốc. Theo kế hoạch vốn ngân sách trung ương
đầu tư cho hạ tầng giao thông vùng ĐBSCL hiện nay tăng lên đến 86.000 tỷ đồng,
chiếm khoảng 14% so với cả nước, tăng gấp 2,6 lần so với giai đoạn 5 năm trước.
Hạ tầng giao thông đường bộ từng bước hoàn thiện và phát triển là động lực thúc
đẩy kinh tế xã hội vùng châu thổ sông Cửu Long ngày càng đi lên.
Điểm sáng trong năm 2023 của khu
vực ĐBSCL là tỉnh Hậu Giang. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2023 của Tổng
cục Thống kê cho biết, tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2023 của
Hậu Giang tiếp tục duy trì ở mức cao, đạt 12,27%, dẫn đầu vùng ĐBSCL và xếp
thứ 2 cả nước (sau Bắc Giang với 13,45%). Tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP tỉnh
Hậu Giang đã được công bố 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng trong năm 2023 đều đứng đầu
khu vực ĐBSCL và luôn thuộc “top” đầu cả nước trong 3 kỳ đã công bố trước đó (9
tháng tăng 13,3%; 6 tháng tăng 14,21%; 3 tháng tăng 12,67%) . Và so với năm
2022, tăng trưởng kinh tế GRDP năm 2023 của Hậu Giang tăng 2 bậc.
Đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng
GRDP năm 2023 của tỉnh Hậu Giang là lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với mức
tăng trưởng 28,32% (cả nước tăng trưởng 3,74%). Sự tăng trưởng nhanh và ngoạn mục
của Hậu Giang là “điểm sáng” và một “hấp lực” tạo cảm hứng, cú “huých” cho cả
vùng ĐBSCL, hứa hẹn một diện mạo mới đang từng bước làm đổi thay vùng ĐBSCL, mở
ra kỷ nguyên phát triển nhanh, đồng bộ và bền vững cho toàn vùng.
Nhận xét
Đăng nhận xét